Triệu Đà – Triệu Vũ Đế
Triệu Đà ( 257 TCN – 137 TCN ) vốn là người nhà Hán. Quê ông ở Hằng Sơn ( tỉnh Hà Bắc thuộc Trung Quốc lúc bấy giờ ). Ông là một vị Tướng của nhà Tần. Ông được lệnh Tần Thủy Hoàng dẫn quân Nam tiến, chiếm đoạt những vùng đất của dân Bách Việt xưa. Sau khi Triệu Đà vượt mặt những bộ tộc ở phía Nam, mà nổi bật là Lạc Việt. Nhà Tần bị diệt vong. Nhân thấy triều đình bị sụp đổ, ông đã tách ra và xưng Đế, quy phục nhà Hán ( Tuy là chư hầu nhưng trong nội bộ ông vẫn xưng là Hoàng Đế ) .
Ông làm vua xứ Nam Việt ( gồm có tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây thuộc Trung Quốc và 1 số ít tỉnh miền Bắc Nước Ta ngày này ). Ông trị vị từ năm 207 TCN đến năm 137 TCN .
Sự Nghiệp Của Triệu Vũ Đế
Triệu Vũ Đế hay còn gọi là Triệu Đà từng là một võ tướng nhà Tần. Sau này nhà Tần diệt vong, ông tách ra xưng đế. Cuộc đời ông có nhiều sự kiện đáng để ta lưu ý.
Bạn đang đọc: Triệu Đà – Kẻ Xâm Lược Hay Vị Vua Có Công Của Việt Nam?
Tần Thủy Hoàng giao trọng trách bình đình xuống Nam
Sau khi thống nhất 7 nước tranh hùng. Tạo nên một nhà nước Trung Quốc thống nhất vĩ đại. Tần Thủy Hoàng bắt tay bình định xuống phía Nam. Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng cho Đồ Thư cùng 50 vạn quân tiến đánh vùng đất phía Nam. Sau khi chiếm được Lĩnh Nam, Đồ Thư tử trận. Sau đó, Tần Thủy Hoàng cho Nhâm Ngao cùng Triệu Đà đến quản lý vùng Lĩnh Nam .
Sau khi tới thủ phủ Long Xuyên nhậm chức, Triệu Đà vận dụng chủ trương “ hoà tập Bách Việt ” đồng thời xin Tần Thủy Hoàng di dân 50 vạn người từ Tập Đoàn Cafe Trung Nguyên đến vùng này, tăng cường chủ trương “ Hoa Việt dung hợp ” ( hòa lẫn người Hoa Hạ và người Lĩnh Nam ) .
Chinh Phục Âu Lạc
Sử sách ghi lại rằng lần xâm phạm tiên phong, Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du ( thuộc tỉnh TP Bắc Ninh thời nay ) giao chiến với An Dương Vương bị thất bại và bỏ chạy. Triệu Đà lập mưu gả con trai là Trọng Thủy cho con gái An Dương Vương là Mỵ Châu để thám thính bí hiểm về bố phòng quân sự chiến lược của Âu Lạc để liên tục triển khai thủ đoạn xâm lược .
Trong thần thoại cổ xưa Trọng Thủy – Mỵ Châu thì có tính ướt lệ và hoành tráng hơn. Triệu Đà cho con ở rể để cướp đoạt nỏ thần mà thần Kim Quy ban. Sau đó tiến công và thắng lợi nhà nước Âu Lạc .
Tách khỏi nhà Tần
Sau khi nhà Tần bị hủy hoại, Cafe Trung Nguyên rơi vào cảnh rối ren. Năm 208 TCN, Nhâm Ngao bị bệnh nặng, nhường quyền hạn lại cho Triệu Đà. Triệu Đà cho quân xuống Lĩnh Nam canh giữ quân Trung Nguyên kéo xuống. Sau đó cho quân hủy hoại những quan quân nhà Tần chống lại mình .
Quy phục nhà Hán
Trải qua cuộc chiến tranh thắng lợi, Lưu Bang thu phục được nhà nước Tây Hán vào năm 202 TCN. Để bảo tồn lực lượng sau cuộc chiến tranh .
Năm 196 TCN, Hán Cao Tổ Lưu Bang sai quan đại phu Lục Giả đi sứ đến nước Nam Việt khuyên Triệu Đà quy phục nhà Hán .
Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép :
Vũ Vương vốn là người kiêu căng, có ý không muốn phục nhà Hán, đến khi Lục Giả sang đến nơi, vào yết kiến Vũ Vương, Vũ Vương ngồi xếp vành tròn, không đứng dậy tiếp.
Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: “Nhà vua là người nước Tàu, mồ mả và thân thích ở cả châu Chân Định. Nay nhà Hán đã làm vua thiên hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng cự sứ thần, không làm lễ thụ phong, Hán đế tất là tức giận, hủy hoại mồ mả và giết hại thân thích của nhà vua, rồi đem quân ra đánh thì nhà vua làm thế nào?” Vũ Vương nghe lời ấy vội vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: “Tiếc thay ta không được khởi nghiệp ở nước Tàu, chứ không thì ta cũng chẳng kém gì Hán Đế!”
Triệu Đà chịu nhận ấn tước Nam Việt Vương, quy thuận nhà Hán trên danh nghĩa .
Xưng Đế trái chiều nhà Hán
Sau khi Lã Hậu lên nắm quyền chuyên chính ( Đối với văn hóa truyền thống Trung Hoa, Lã hậu cùng Võ Tắc Thiên và Từ Hi thái hậu là những người phụ nữ chuyên chính điển hình nổi bật nhất lịch sử dân tộc Trung Quốc ). Lã Hậu ra lệnh cấm vận với nước Nam Việt. Triệu Đà thấy Lã Hậu hoàn toàn có thể qua nước Trường Sa [ 15 ] mà thôn tính Nam Việt. Thế là Triệu Đà bèn công bố độc lập trọn vẹn khỏi nhà Hán, tự xưng “ Nam Việt Vũ Đế ” và cất quân đánh nước Trường Sa, chiếm được mấy huyện biên giới của Trường Sa mới chịu thôi .
Lã Hậu bèn sai đại tướng Long Lư hầu là Chu Táo đi đánh Triệu Đà. Quân lính Cafe Trung Nguyên không quen khí hậu oi bức và ẩm thấp miền nam, ùn ùn đổ bệnh, ngay dãy núi Ngũ Lĩnh cũng chưa đi qua nổi. Một năm sau, Lã Hậu chết, mưu đồ đánh Triệu Đà của quân nhà Hán bỏ hẳn .
Lúc đó Triệu Đà dựa vào tiếng tăm tài quân sự chiến lược của mình lừng lẫy cả vùng Lĩnh Nam, lại nhờ tài hối lộ của cải, làm cả Mân Việt và phía Tây nước Âu Lạc cũ ùn ùn quy thuộc Nam Việt. Lúc ấy nước Nam Việt bành trướng đến mức cực thịnh. Triệu Đà mở màn lấy tên uy Hoàng Đế mà ra lệnh ra oai, thanh thế ngang ngửa trái chiều với nhà Hán .
Quy thuân nhà Hán một lần nữa
Năm 179 TCN, vua Hán sai người tu sửa mồ mả cha ông Triệu Đà, cắt đặt hàng năm đúng ngày thờ cúng, ban thưởng chức vụ và của cải cho bà con Triệu Đà còn ở trong đất Hán. Nghe thừa tướng Trần Bình tiến cử, Lưu Hằng sai Lục Giả, người từng được Hán Cao Tổ sai sứ đi Nam Việt nhiều lần, làm chức Thái Trung Đại Phu, lại đi thuyết phục Triệu Đà quy Hán. Lục Giả đến Nam Việt, lại trổ tài thuyết phục Triệu Đà. Triệu Đà nghe thuyết phục phải trái hơn thiệt, quyết định hành động bỏ thương hiệu Đế, quy phục nhà Hán ( nhưng vẫn tiếm hiệu xưng Hoàng Đế ở trong nước Nam Việt ) .
Sau đó Triệu Đà chết đi, con cháu liên tục được 4 đời vua Nam Việt, cho đến năm 111 trước Công Nguyên mới bị nhà Hán chiếm .
Triệu Hưng lên ngôi thay Triệu Ddaf, tức Triệu Ai Vương. Mẹ là Cù thái hậu tham chính. Hán Vũ Đế sai sứ giả An Quốc Thiếu Quý, vốn là người tình cũ của Cù thái hậu, sang thuyết phục Nam Việt nội phụ nhà Hán. Cù thái hậu lại cùng Thiếu Quý tư thông và muốn thuận theo nhà Hán, nhưng Thừa tướng người Việt là Lữ Gia phản đối. Năm 112 TCN, Lữ Gia đem quân đánh vào cung, giết chết Cù thái hậu và Triệu Ai Vương cùng An Quốc Thiếu Quý, lập anh của Triệu Ai Vương là Triệu Kiến Đức lên ngôi, tức là Triệu Thuật Dương Vương .
Năm 111 TCN, Hán Vũ Đế sai Dương Bộc, Lộ Bác Đức đem đại quân sang đánh. Vua Triệu là Thuật Dương Vương Kiến Đức và Thừa tướng Lữ Gia lần lượt đều bị bắt và bị hại ( 111 TCN ). Dựa trên mạng lưới hệ thống những đền, miếu, đình, chùa thờ Lữ Gia, phu nhân và những tướng lĩnh của ông rải rác trên khắp vùng đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc Nước Ta, rất hoàn toàn có thể cuộc kháng chiến chống nhà Tây Hán còn lê dài đến năm 98 TCN. Sau khi Phiên Ngung thất thủ, Tây Vu Vương ( thủ lĩnh đất tự trị Tây Vu với TT là Cổ Loa đã nổi dậy chống lại rủi ro tiềm ẩn Bắc thuộc lần 1 trước sự xâm lăng của nhà Tây Hán. Tả tướng Hoàng Đồng ( 黄同 ) của hai Q. Giao Chỉ và Cửu Chân đã giết chết Tây Vu Vương đang làm mưa làm gió để hàng Hán. Triều đại nhà Triệu chính thức kết thúc .
Những tranh luận về nhà Triệu và Triệu Đà
Nhà Triệu là một triều đại, hay một quá trình lịch sử dân tộc gây nhiều tranh luận cho giới nghiên cứu và điều tra sử học Nước Ta. Sử học Nước Ta từ trước đến nay đều có hai quan điểm trái ngược nhau :
Triệu Vũ Đế vượt mặt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt là chuyện nội bộ nước Việt, nhà Triệu là triều đại chính thống của Nước Ta. Nhà Triệu mất là khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc .
Triệu Đà là người phương Bắc, quê quán ở Trung Quốc ( nay là tỉnh Hà Bắc, thuộc lưu vực sông Hoàng Hà ở Trung Quốc ) theo lệnh Tần Thuỷ Hoàng đem di dân người Hoa Hạ ( sau này gọi là người Hán ) xuống vùng Lĩnh Nam, khi nhà Tần mất thì mới tách ra cát cứ, do đó Triệu Đà là kẻ ngoại bang đến xâm lược nước Âu Lạc. An Dương Vương mất nước là khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc .
Xoay quanh yếu tố Triệu Đà và nhà Triệu, mấu chốt là thế giới quan nhìn nhận của nhà sử học. Những người tôn vinh thuyết Thiên mệnh của Nho giáo ( cho rằng ngôi vị là do “ Trời định ”, ai xưng đế ở vùng đất nào thì nghiễm nhiên được coi là vua, nắm giữ “ Thiên Mệnh ” của vùng đất đó, bất kể xuất thân thuộc dân tộc bản địa nào ) thì sẽ nhìn nhận Triệu Đà là vua Nước Ta, đây là cách nhìn của nhiều sử gia Việt Nam thời phong kiến. Ngược lại, những nhà sử học có tư duy biện chứng về vương quốc – dân tộc bản địa, coi trọng nguồn gốc xuất thân, tính dân tộc bản địa của người đứng đầu chính quyền sở tại, thực chất của cỗ máy quan lại nước Nam Việt ( hầu hết quan lại Nam Việt là người Nước Trung Hoa, còn người Việt là dân bị trị ) và không công nhận thuyết “ Thiên Mệnh ” thì sẽ coi Triệu Đà là triều đại xâm lăng của phương Bắc, đây là cách nhìn của những sử gia thời văn minh .
Các tài liệu lịch sử dân tộc của nhà Triệu thì cho thấy đến cuối đời, Triệu Đà đã quyết định hành động bỏ việc xưng Đế, quy phục nhà Hán ( nhưng vẫn xưng Hoàng Đế ở trong Nam Việt ). Triệu Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, trong thư Triệu Đà đã công nhận rằng mình là người Nước Trung Hoa và nhà Triệu chỉ là chư hầu ship hàng cho nhà Hán, thay mặt đại diện vua Hán để quản lý phía Nam, bản thân ông ta cũng chỉ coi những thần dân người Việt là đám “ Man Di ” mà thôi chứ không coi họ ngang hàng với dân Trung Quốc .
Ý kiến công nhận nhà nước Triệu Đà
Từ khi giành lại quyền tự chủ, nhiều triều đại Việt tôn vinh vai trò lịch sử dân tộc của Triệu Đà. Các bộ quốc sử Nước Ta soạn từ nhà Trần cho đến nhà Nguyễn đều chép nhà Triệu là một triều đại chính thống. Nhà Trần phong ông là Khai thiên Thế đạo Thánh vũ Thần triết Hoàng đế .
Bộ Đại Việt sử ký soạn bởi sử gia Lê Văn Hưu đời Trần. Ông so sánh Vũ Đế với các bậc vua hiền thời cổ như Thuấn, Văn Vương:
Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ, đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi.
Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là “ lão phu ”, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy hoàn toàn có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, tiếp xúc với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được vĩnh viễn, người phương Bắc không hề lại ngấp nghé được .
An Nam chí lược soạn bởi Lê Tắc đời Trần có viết : Triệu Đà làm vua Nam Việt, mới lấy thi lễ giáo hóa nhân dân một chút ít .
Điều này chứng tỏ Triệu Đà là người mang sự học đến Nước Ta từ trước chứ không phải Sĩ Nhiếp .
Bình Ngô đại cáo soạn bởi Nguyễn Trãi thay lời Bình Định Vương Lê Lợi sau khi bình xong quân Minh :
Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tức là :
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nên độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Hai câu này chứng minh và khẳng định nước Việt không những độc lập với phương Bắc mà còn xưng đế hiệu cùng một thời ( nhà Triệu với nhà Hán ), tỏ ra trọn vẹn ngang hàng ( Tuy nhiên cũng có quan điểm khác cho rằng “ Triệu ” ở đây là chỉ Triệu Quang Phục, vua của nước Vạn Xuân, tuy nhiên Triệu Quang Phục chỉ xưng Vương chứ chưa xưng đế nên không hề ngang hàng với nhà Hán được )
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư soạn bởi Ngô Sĩ Liên, sử gia nhà Hậu Lê cũng dành cho Triệu Vũ Đế những lời tốt đẹp :
Truyện Trung Dung có câu : “ Người có đức lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu ”. Vũ Đế làm gì mà được như thế ? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu vấn đáp Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho đồng đội, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư ? Kinh Dịch nói : “ Biết khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua ”. Vua chính hợp câu ấy .
Quốc sử quán triều Nguyễn thời vua Tự Đức vẫn ghi danh những vua Triệu như là tiền triều .
Khâm Định Việt sử thông giám cương mục có ghi lời phê :
Xét chung từ trước đến sau, đất đai của nước Việt ta bị mất về Trung Quốc đã đến quá 50%, tiếc rằng vua sáng tôi hiền những triều đại cũng nhiều người lỗi lạc hiếm có ở trên đời, mà vẫn không thể nào lấy lại được một tấc, đó là việc đáng ân hận lắm ! Thế mới biết việc tịch thu đất đai đã mất, từ đời trước đã là việc khó, chứ không những ngày này mà thôi. Thật đáng thương tiếc .
Việt Nam sử lược soạn bởi Trần Trọng Kim ( 1919 ) viết nhà Triệu là chính thống, thuộc một chương riêng, thuộc thời tự chủ không phải Bắc thuộc ( Phần I : Thượng Cổ thời đại. Chương IV : Nhà Triệu )
Ý kiến phủ nhận nhà nước Triệu Đà
Các tài liệu lịch sử vẻ vang của nhà Triệu thì cho thấy đến cuối đời, Triệu Đà đã quyết định hành động bỏ thương hiệu Đế, quy phục nhà Hán ( nhưng vẫn xưng Hoàng Đế ở trong Nam Việt ). Triệu Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, trong thư ông viết :
“ Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà, mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên Hoàng đế chúa thượng. Lão phu vốn là lại cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng Đế lên ngôi, vì nghĩa không nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu. Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa – Di, ra lệnh không cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng bằng sắt và đồng ; ngựa, trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực, không cho con cháu. Lão phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già … Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá, bạn bè họ hàng đều bị giết .
Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng : “ Nay bên trong không được mừng quýnh với nhà Hán, bên ngoài không lấy gì để tự cao khác với nước Ngô ”. Vì vậy mới đổi xưng hiệu là Đế, để tự làm Đế nước mình, không dám làm điều gì hại đến thiên hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt, khiến cho việc sai người đi sứ không thông … Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi, những vẫn phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm không yên chiếu, ăn không biết ngon, mắt không trông vẻ đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống, chỉ vì không được làm bề tôi nhà Hán mà thôi. Nay may được hoàng thượng có lòng thương đến, được Phục hồi hiệu cũ, cho thông sứ như trước, lão phu dù chết xương cũng không nát. Vậy xin đổi tước hiệu, không dám xưng Đế nữa. ”
Như vậy, Triệu Đà đã nhận rằng mình chỉ là phiên vương ship hàng cho nhà Hán, đại diện thay mặt vua Hán để quản lý phía Nam, bản thân ông cũng chỉ coi những thần dân người Việt là đám “ Man Di ” mà thôi .
Sử gia Hồ Sĩ Dương nhà Hậu Lê khi soạn lại Lam Sơn thực lục ( 1679 ) đã viết lời bình :
Vũ đế nhà Triệu cùng vua Hán đều tự làm vua nước mình, gồm có đất ở ngoài Ngũ Lĩnh, đóng đô ở Phiên Ngung, thật là vua anh hùng. Thế nhưng chẳng qua cũng là một người Tàu sang cai trị nước ta, chưa được chính thống…
Ngô Thì Sĩ, một thế kỷ sau, cuối đời Hậu Lê đã đánh giá vai trò của nhà Triệu trong Việt sử tiêu án, ông khẳng định nước Nam Việt là ngoại bang, Triệu Đà là kẻ ngoại tộc:
An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ : “ Kỷ Triệu Vũ Đế ”. Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi ! Đất Nước Ta Hải, Quế Lâm không phải là đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi phát ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc Q., đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta .
Nếu coi là đã làm vua nước Việt, mà đến ở quản lý nước ta, thì sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi ở đất Bàn Dương, Lưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu Trung Quốc, đều xưng là Nam Việt Vương, cũng cho theo Quốc kỷ được ư ? Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nước Thục, nếu sử nước Thục hoàn toàn có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta cũng hoàn toàn có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương. Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc để phân biệt với nội thuộc vậy .
Ngô Thì Sĩ Tóm lại : Nước ta bị nội thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Đường, truy nguyên thủ họa chả Triệu Đà thì còn ai nữa ? Huống chi Triệu Đà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, phân phối ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục Giả thôi. Đến như việc xướng ra cơ nghiệp đế vương thứ nhất, tán tụng Triệu Đà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như vậy, Ngô Sĩ Liên theo cách chép hẹp hòi ấy, không biết đổi khác, đến như bài Tổng luận sử của Lê Tung, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc thánh đế của nước ta. Qua hàng nghìn năm mà không ai cải chính lại cho nên vì thế mà tôi phải biện bạch kỹ càng .
Trong một bài viết trên báo Sông Hương năm 1936, Pham Quỳnh phản đối những sử gia phong kiến đã coi Triệu Đà là vua của Nước Ta. Theo ông, “ quốc sử phải lấy dân tộc bản địa làm nền ”, Triệu Đà là người Hán nên không hề coi là vua nước Việt, và “ sử gia phong kiến tôn y ( Triệu Đà ) là ông vua khai quốc, ấy là đã làm một việc không có ý nghĩa … ” .
Học giả Đào Duy Anh, trong cuốn Lịch sử cổ đại Nước Ta ( 1957 ) cho rằng :
Nhà Triệu không phải là quốc triều, Triệu Đà chỉ là một tên giặc cướp nước, ý niệm của Lê Văn Hưu là ý niệm lịch sử vẻ vang phản dân tộc !
Giáo trình lịch sử vẻ vang văn học Nước Ta, tập I : Văn học dân gian ( 1961, PGS. Đỗ Bình Trị ) :
Thất bại của An Dương Vương do không đề phòng kẻ địch – thậm chí còn còn tin vào kẻ địch nham hiểm – là mặt thứ hai của bài học kinh nghiệm giữ nước .
Văn học dân gian Nước Ta ( 1962 ), GS.Đinh Gia Khánh viết :
Thần Nông lúc đầu vốn có trong truyền thuyết thần thoại của Miêu tộc, dân tộc bản địa Hán sau này đã nhập vị thần này vào sổ bạ nhà thần Hán tộc ; mặt khác, ông nhìn nhận Triệu Đà là kẻ ngoại xâm, kẻ gây ra tấn thảm kịch nước mất, nhà tan cho cha con An Dương Vương .
Lịch sử Nước Ta, tập 1 ( 1971, khu công trình tập thể không ghi tên những tác giả ), được biên soạn dưới sự chỉ huy trực tiếp của Ủy ban Khoa học xã hội Nước Ta được xuất bản. Cuốn sách đã viết về Triệu Đà với cái nhìn thiếu thiện cảm :
Triệu Đà biết rằng không hề thắng được Âu Lạc về quân sự chiến lược nên rút về núi Vũ Ninh, xin hòa với An Dương Vương. Hắn sai con trai là Trọng Thủy sang thu phục An Dương Vương, xưng thần mà thờ. An Dương Vương gả con gái là Mị Châu cho Trọng Thủy. Trọng Thủy ở gửi rể bên nước Âu Lạc. Đấy chính là mưu mẹo mà Triệu Đà dùng để chiếm nước Âu Lạc .
Trong những năm ở gửi rể, Trọng Thủy đã dò xét tình hình Âu Lạc, học phép chế nỏ và phá nỏ của người Âu Lạc rồi trốn về nước báo cho Triệu Đà. Kết hợp lực lượng quân sự chiến lược và mưu mẹo gián điệp, lần này Triệu Đà thôn tính được nước Âu Lạc. An Dương Vương thua trận, phải nhảy xuống biển tự vẫn. Việc đó xảy ra vào khoảng chừng năm 179 trước Công nguyên .
Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Nước Ta ( 1974 ), nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh nhận xét :
…Nếu dân tộc Âu Lạc đã thống nhất từ bên dưới thì xã hội Âu Lạc lại bắt đầu chia rẽ từ bên trên. Quyền lợi vật chất đã tập trung vào một dòng họ quý tộc. Dòng họ này sống bằng mồ hôi nước mắt và máu của nô tì lao dịch, co rúm vào trong nội thành, đã mất cảnh giác với kẻ thù lại không tin vào nhân dân, thậm chí nghe lời gièm pha của bọn gian thần mà hại cả kiệt tướng trung thần. Sự đối lập giai cấp và lẫn lộn bạn thù này tất phải mở đường cho cuộc xâm lược của cha con họ Triệu nòi Hán và kết thúc bằng số phận bi thảm của cha con vua Chủ (An Dương Vương và Mị Châu). Trong lúc đó thì quần chúng vẫn không nguôi hận thù đối với bọn cướp nước.
Văn học dân gian Nước Ta ( 1990, do GS. Lê Chí Quế chủ biên ) và trong Văn học dân gian Nước Ta, tập 2 ( của PGS. Hoàng Tiến Tựu ), những tác giả đều xếp Triệu Đà vào hàng ngũ bọn xâm lược .
Phan Huy Lê, giáo sư lịch sử dân tộc, trong lời trình làng cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ( 2000 ) cho rằng :
Việc Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên coi nhà Triệu là một vương triều chính thống của Nước Ta là một sai lầm đáng tiếc nghiêm trọng. Ông chứng minh và khẳng định Nam Việt là một nước cát cứ của một tập đoàn lớn phong kiến, không phải là nước của người Nước Ta. Ông cho rằng việc Triệu Đà đặt tên nước là Nam Việt ( tỏ ý muốn phục hưng nước cũ của người Việt ) cũng như việc Triệu Đà tự xưng là ” Man Di đại trưởng lão phu ”, lấy vợ Việt, theo tục Việt … chỉ là những thủ đoạn mị dân Việt. Việc Triệu Đà chống Tần chống Hán cũng chỉ nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu mộng bá vương của riêng mình …
Nhưng nhiều sử gia phong kiến đã không nhận ra bộ mặt cát cứ, xâm lược của nhà Triệu và ngộ nhận coi nhà Triệu là một triều đại của Nước Ta .
Tố Hữu làm thơ gọi họ Triệu là “ giặc ”, phê phán Mỵ Châu làm mất nước :
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu.
Quan điểm phủ nhận Triệu Đà hiện là quan điểm chính thống của giới sử học Nước Ta, được phản ảnh trong những bộ thông sử vương quốc, được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông và ĐH .
Quan điểm nhìn nhận
Vấn đề nguồn gốc của dòng vua
Xoay quanh yếu tố Triệu Đà và nhà Triệu, mấu chốt là do quan điểm nhìn nhận. Các sử gia không có xu thế coi nặng việc tìm nguồn gốc Triệu Đà và thực chất dân nước Nam Việt sẽ nhìn nhận Triệu Đà là vua Nước Ta. Ngược lại những người coi trọng nguồn gốc xuất thân, dân tộc bản địa của người đứng đầu chính quyền sở tại, và thực chất dân nước Nam Việt thì sẽ có nhìn nhận khác .
Triệu Đà là người phương Bắc ( đến từ phía Bắc sông Hoàng Hà, ngày này là miền Bắc Trung Quốc ), vốn là tướng nhà Tần, quê ở Chân Định ( tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc thời nay ), mộ cha mẹ vẫn táng ở đấy .
Bên công nhận nhà Triệu cho rằng:
Nếu đặt ra yếu tố nguồn gốc của Triệu Đà, thì chính nguồn gốc của An Dương vương, gần đây cũng được nhiều nhà nghiên cứu nêu ra, sẽ không khác gì Triệu Đà. Theo một số ít khu công trình nghiên cứu và điều tra gần đây ( Lịch sử Nước Ta tập 1, Theo dòng lịch sử dân tộc – nhiều tác giả ) thì Thục Phán vốn gốc là dòng dõi người nước Thục ở Tứ Xuyên ( Trung Quốc ) và sang xâm lược nước Văn Lang, tàn phá Hùng Vương [ cần dẫn nguồn ]. Nếu vậy, An Dương vương liệu còn là một triều đại Nước Ta không ? Đi xa hơn thế nữa, nếu truy về nguồn cội tổ tiên, thì còn những trường hợp khác mà sử đã ghi, như Lý Nam đế ( Lý Bí ) có tổ 7 đời là người phương Bắc ( Trung Quốc ) vào Nước Ta, hoặc tổ tiên 5 đời của nhà Trần cũng vốn xuất thân từ đất Mân ( Phúc Kiến – Trung Quốc ) sang ; tổ tiên của Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật sang Nước Ta thời Dương Tam Kha ( sử chép là thời Hậu Hán 947 – 950, tương tự Dương Bình vương ) được phong chức ở châu Hoan …
Một số nhà nghiên cứu và điều tra cho rằng, trên quốc tế, việc một người quốc tế làm vua không phải là không có. Chẳng hạn nước Nga vẫn ghi nhận vợ của Pyotr Đại đế là Ekaterina I, dù không phải là người Nga, nhưng được chồng cho thừa kế ngôi, là nữ hoàng như những nữ hoàng khác .
Tuy nhiên, những người phản bác cho rằng trường hợp nữ hoàng Ekaterina I của Nga cũng không hề so với Triệu Đà : một đàng chỉ một người ngoại bang đã “ nhập gia ” quê chồng, còn triều đình, quân đội, ngôn từ vẫn là địa phương, đằng kia hàng loạt triều đình, quân đội, ngôn từ là dị biệt. Đặt giả định nếu nhà Tần không mất thì Triệu Đà sẽ không tách ra cát cứ, và cũng sẽ chẳng có nước Nam Việt mà đó chỉ là một Q. của Trung Quốc mà thôi. Vai trò của Triệu Đà khi ấy sẽ chẳng khác gì những viên quan Thái thú triều đình phía Bắc khác đã quản lý Nước Ta suốt thời Bắc thuộc .
Theo tác giả Hà Văn Thùy, cuối thế kỷ 18, vua nước Xiêm là một người Trung Quốc tên Trịnh Quốc Anh từng kéo quân sang đánh Hà Tiên. Trong khi đó, Triệu Đà có vợ Trình Thị là người Đường Thâm, Giao Chỉ, nên những con cháu ông – những đời vua sau của nhà Triệu – đều có phần máu Việt. Cũng theo ông Hà Văn Thùy thì “ đúng Triệu Đà là người Hán nhưng đất Nam Việt lúc đó hầu hết là người Việt, thế cho nên không hề phủ nhận việc ông là vị vua tiên phong của nước Nam Việt, ông vua khai sáng của Nước Ta tất cả chúng ta ” .
Vấn đề “xâm lược” hay “thống nhất”
Những người phản đối tính chính thống của nhà Triệu, trong đó có Ngô Thì Sĩ, lập luận rằng Triệu Đà khởi phát ở bên ngoài chủ quyền lãnh thổ nước Việt, chiếm nước Việt làm quận huyện. Nước Nam Việt của Triệu Đà không phải nước Việt với ba vùng Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam mà trong sử sách Nước Ta vẫn coi là chủ quyền lãnh thổ của mình. Do đó, nếu coi Triệu Đà là một vua Nước Ta thì giả thuyết này coi nước Nước Ta lúc ấy gồm có cả những tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, một phần của tỉnh Hồ Nam, Vân Nam, và Phúc Kiến của Trung Quốc giờ đây. Nếu không thì phải cho đây là một sự xâm lược .
Một số học giả lại không cho việc Triệu Đà sáp nhập vùng đất của Âu Lạc vào Nam Việt là xâm lược. Tác giả Hà Văn Thùy lập luận rằng “ sự link trong mỗi vương quốc còn lỏng lẻo và biên giới từng vương quốc chưa không thay đổi, đang trong khuynh hướng sáp nhập tập trung chuyên sâu thành những vương quốc đủ mạnh để sống sót. Do đó, việc thôn tính những nước Sở, Ngô, Việt … để thành nước Tần không phải hành vi xâm lược mà là công lớn thống nhất quốc gia. Tương tự vậy, việc Triệu Đà chiếm Âu Lạc cũng không hề coi là cuộc xâm lược mà là hành vi thống nhất những nhóm, những tiểu quốc người Việt lại thành môt nước Việt lớn hơn, ngăn ngừa hành vi thôn tính của kẻ mạnh ở phương Bắc. ” Học giả này nhìn nhận cao vai trò của nhà Triệu trong việc “ tạo nên và củng cố ý thức vương quốc của người Việt ”, và cho rằng đó là “ di sản quý báu nhất họ Triệu để lại cho người Việt ” .
Theo một nghiên cứu và điều tra của tác giả E Lusuo người Đài Loan về quy trình nhà Tần bình định vùng Nam Việt, vào thời nhà Tần, dân cư bên này hay bên kia biên giới Việt-Trung văn minh là không hề phân biệt được. Một sự kiện lịch sử vẻ vang ủng hộ thuyết này đó là : cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng cũng nhận được sự ủng hộ và tham gia của dân cư tại những Q. Nam Hải, Hợp Phố mà nay thuộc địa phận Trung Quốc đã chiếm được 65 thành trì ( Theo sách Hậu Hán Thư, chương 68 : “ Lịch sử về tộc Man Di phía Nam và Tây Nam ” ( Biographies of the Southern and the Southwestern Barbarians ) ) ; những học giả Trung Quốc gọi họ là người Lạc Việt, họ được cho là sử dụng cùng một ngôn từ .
Vấn đề chấp nhận triều đại ngoại tộc
Có người cho rằng quan điểm của những sử gia Nước Ta và Trung Quốc, một nước phong kiến khác tại châu Á, có sự khác nhau. Ở Trung Quốc, có nhiều triều đại, nổi bật là Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều, nhà Nguyên, nhà Thanh đều xuất thân ngoại tộc, không phải người Hán, nhưng sử sách vẫn chép như những triều đại khác của Trung Quốc, không coi là thời kỳ bị nội thuộc Hung Nô hay Mông Cổ. Những triều đại này sử dụng tiếng Hán, nghi lễ tập tục trong triều đã Hán hóa khá nhiều. Thậm chí người Mãn đã Hán hóa đến mức thời nay chỉ còn 1 số ít rất ít người già còn biết tiếng Mãn, còn lớp trẻ chỉ biết tiếng Hán, một phần người Mông Cổ hay người Mãn thời nay là 2 trong số 56 dân tộc bản địa của Trung Quốc, tức là lịch sử dân tộc của họ cũng hoàn toàn có thể coi là một phần lịch sử dân tộc vương quốc. Ngoài ra, đất đai của những triều đại này hầu hết là chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc ngày này .
Theo học giả Lê Thành Khôi thì mặc dầu gốc Nước Trung Hoa, Triệu Đà đã chịu đồng nhất với dân Nam Việt, mà ông gật đầu những phong tục tập quán đến độ gần như quên cả quá khứ của mình
Vai trò của Nhà Triệu trong lịch sử vẻ vang Nước Ta
PGS-TS Trương Sỹ Hùng nhìn nhận, Nhà Triệu điển hình nổi bật nhất trong góc nhìn bảo vệ độc lập, tự chủ của nước Nam Việt trước cường quốc phương Bắc là nhà Hán – khi đó mới xây dựng sau khi Hán – Sở tranh hùng .
“ Bên cạnh đó, ông ( Triệu Đà ) vấn đáp một câu rất hay là : Nhưng mà tôi vẫn đặt quan hệ đi lại, bang giao – tức là để quan hệ bang giao thuận tiện hơn, mà không để giãn cách. Tôi cho rằng, bài học kinh nghiệm đấy không những giờ đây, mà mãi mãi về sau này, do tại cái sự sống sót, độc lập dân tộc bản địa của mỗi vương quốc là riêng. Còn yếu tố lúc va chạm nhau là chuyện giải quyết thắng thua, rành mạch, sòng phẳng, sau đó tất cả chúng ta lại phải giữ quan hệ với nhau hữu hảo, lâu dài hơn. ”
Nhà giáo Vũ Thế Khôi nghiên cứu và phân tích kỹ hơn, Nhà Triệu đã lập ra một vương quốc tự chủ cho người Việt, bằng cách tập hợp, thống nhất được sự đoàn kết của những sắc tộc cùng sinh sống trong chủ quyền lãnh thổ Nam Việt mà được gọi là “ Hòa tập Bách Việt ”. Nhà Triệu cũng khôn khéo trong chủ trương “ Trong Đế – Ngoài Vương ” và cương quyết bảo vệ nền độc lập trước nhà Hán khi bị xâm lăng .
“Để tồn tại được thì rất mềm mỏng, nhưng khi cần bảo vệ quốc gia thì cương quyết, không hèn nhát. Và chính vì thế, vương triều nhà Triệu cho đến bây giờ vẫn sống trong tâm thức người Việt. Rất nhiều nơi trên đất Việt Nam, theo thống kê của Trung tâm Minh Triết là hơn 30 nơi thờ Triệu Vũ Đế.”
Bên cạnh đó, Nhà giáo Vũ Thế Khôi cho rằng, để tạo ra sự thống nhất, Triệu Vũ Đế đã đưa chữ Hán vào đời sống chính trị, xã hội Nam Việt khi đó, chứ không phải do quân đội nhà Tần mang đến .
“Trong khi chữ Việt cổ bị mai một từ lúc nào đấy do hoàn cảnh lịch sử. Mà bây giờ các học giả đã chứng minh là nó có, mà chính người Trung Hoa xây dựng chữ tượng hình của họ trên cơ sở chữ Việt cổ đó. Nhưng lúc bấy giờ chữ Việt cổ không còn được sử dụng rộng rãi nữa, thì ông ấy sử dụng luôn chữ Hán, để làm công cụ truyển tải trong chính quyền của ông ấy.”
Lịch sử Nước Ta thời kỳ dựng nước và bảo vệ nền độc lập từ ngày đầu còn nhiều điều mà hậu thế chưa rõ, và cả dân tộc bản địa này vẫn đang đi tìm hiểu và khám phá lấp đầy những khoảng trống, xử lý những khúc mắc .
PGS-TS Trương Sỹ Hùng cho biết, thời hạn tới đây, những học giả, nhà nghiên cứu Nước Ta sẽ liên tục khảo sát những di chỉ khảo cổ, tìm kiếm tài liệu, thư tịch cổ về Nhà Triệu không chỉ tại miền Bắc Nước Ta, mà còn cả ở Quảng Đông, Quảng Tây – những vùng đất của người Bách Việt xưa, trong chủ quyền lãnh thổ Nam Việt thời Triệu Đà .
Đền thờ Triệu Đà
Tượng thờ Triệu Vũ Đế ( tức Triệu Đà ) đặt tại đền Đồng Xâm, xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Tỉnh Thái Bình .
Nhiều nơi ở miền Bắc Nước Ta và miền Nam Trung Quốc có đền miếu thờ cúng ông. Đình thờ Thành hoàng Triệu Đà ở xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, Nước Ta. Xưa kia đây là nơi Triệu Đà cho thiết kế xây dựng điện Long Hưng. Đình thờ cha mẹ và đền thờ của Triệu Đà ở xã Quang Minh, huyện Thanh Oai, TP TP.HN. Đền Đồng Xâm ở xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Tỉnh Thái Bình, Nước Ta thờ Triệu Đà và phu nhân Trình thi. Nhiều nơi xung quanh khu vực Cổ Loa ( huyện Đông Anh, Thành Phố Hà Nội ) như những làng Văn Tinh, Lực Canh ( thuộc xã Xuân Canh ), Thạc Quả ( thuộc xã Dục Tú ) thờ Triệu Đà .
Truyền thuyết dân gian vùng ven thành Cổ Loa kể lại khi đi đánh An Dương Vương. Triệu Đà đã cho thuyền ngược sông Hồng và cho đóng quân ở bến sông, nay là đoạn cuối làng Dâu ( hay có tên khác là làng Lực Canh ) và đầu làng Văn Tinh, nơi rất gần với ngã ba Dâu ( nơi hợp lưu của sông Đuống và sông Hồng ) .
Tương truyền, làng Văn Tinh là nơi Triệu Đà đóng trụ sở còn dân làng Lực Canh chỉ làm trách nhiệm như cắt cỏ ngựa, khuân vác, ship hàng cho quân đội. Vì thế, đình Văn Tinh được coi là nơi thờ chính còn những nơi khác chỉ là nơi thờ vọng. Lễ hội làng Văn Tinh được tổ chức triển khai từ ngày mùng 6 đến mùng 8 tháng 3 hàng năm để tưởng niệm Triệu Đà. Ngày 7 tháng 3, nhân dân làng Lực Canh rước tượng Trọng Thủy đến Văn Tinh với ý nghĩa con về thăm cha .
Miếu Nam Việt Vương ở thị xã Đà Thành, huyện Long Xuyên, địa cấp thị Hà Nguyên, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc thờ Thành hoàng Triệu Đà. Miếu được kiến thiết xây dựng từ thời nhà Thanh .
Quyển thơ sử với đầu đề “ Lịch sử nước ta ” do Hồ Chí Minh viết tay ( do Việt Minh Tuyên truyền Bộ xuất bản năm 1942 ) cũng đã có đoạn viết :
Triệu Đà là vị hiền quân
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.
Quan điểm chính thống lúc bấy giờ của Nước Ta coi nhà Triệu là triều đại của ngoại bang, thời kỳ Bắc thuộc ( bị Nước Trung Hoa đô hộ ) được tính từ thời nhà Triệu, nhưng lại có ngoại lệ là cuốn Niên biểu Nước Ta, tiếp theo nhà Thục, kê rõ nhà Triệu với vừa đủ những đời vua, tiếp theo là đến “ Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến Nước Trung Hoa thống trị lần thứ nhất ” tính từ năm 111 TCN .
Trong bảng tra cứu niên hiệu những đời vua Nước Ta cũng liệt kê niên hiệu Kiến Đức của Thuật Dương Vương, vua ở đầu cuối nhà Triệu ( thật ra Kiến Đức là tên húy của ông vua này ). Ngoại lệ này có lẽ rằng do sách niên biểu cốt để Giao hàng việc tra cứu, trong khi nhiều sử sách xưa của Nước Ta coi nhà Triệu là một triều đại Nước Ta .
SummaryName
Huynh Hieu Travel
Nickname
(Huynh Hieu Travel)
Website https://wikisongkhoe.com/Job Title
Travel Blogger
Company
Huynh Hieu Travel Blog Travel
Address
18 Nguyễn Trung Trực,
Hậu Giang,
Mekong Delta River
Xem thêm: 5 Ông Độ Mạng Là Ai BiếT, Bạn Có Biết Vị Phật Nào Độ Mệnh Cho Bạn – https://wikisongkhoe.com
, 95000
Source: https://wikisongkhoe.com
Category: Hỏi đáp ✅ (ĐÃ XÁC MINH)
Đây là website tự động và trong giai đoạn thử nghiệm tool tự động lấy bài viết, mọi thông tin đăng tải trên website này chúng tôi không chịu trách nhiệm dưới mọi hình thức, đây không phải là một website phát triển thông tin, nó được xây dựng lên với mục đích thử nghiệm các phương pháp tự động của chúng tôi mà thôi. Nếu có khiếu nại vui lòng gửi thông tin cho chúng tôi.